27/03/2015
Một số nhầm lẫn về nội dung của luật giáo dục nghề nghiệp cần nhanh chóng được quốc hội chỉnh sửa để luật sớm đi vào cuộc sống
Sau khi Luật giáo dục nghề nghiệp được chính thức công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng tôi mới có điều kiện được nghiên cứu đầy đủ các nội dung của Luật. Theo quan điểm của chúng tôi, so với Luật Dạy nghề trước đây, việc ra đời Luật Giáo dục Nghề nghiệp là một bước thay đổi rất lớn trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, góp phần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam theo tinh thần của Nghị quyết 29 của Ban chấp hành trung ương khóa 11 kỳ họp thứ 8. Tuy nhiên nhận xét trên sẽ phù hợp nếu Luật chỉ dừng lại ở lĩnh vực giáo dục nghề hay dạy nghề (Vocational Education). Việc đưa vào luật này nhiều lĩnh vực của giáo dục nghề nghiệp nhưng lại theo cùng một khuân mẫu giáo dục nghề sẽ dẫn tới một số hệ lụy làm méo mó cơ cấu nhân lực đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, gây khó khăn cho việc ban hành các chính sách đãi ngộ nhân lực và cho việc công nhận trình độ tương đương về đào tạo với các quốc gia khác theo tinh thần hội nhập quốc tế - Kết quả là nếu không kịp thời điều chỉnh những nội dung nhầm lẫn của Luật Giáo dục nghề nghiệp thì trong thời gian tới Luật sẽ gặp khó khăn khi đi vào đời sống.
a. Nhầm lẫn Giáo dục nghề nghiệp là một lĩnh vực đào tạo nhân lực (có thể thuộc nhiều bậc học, cấp học hay trình độ học khác nhau) với một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân, thể hiện ở Khoản 1 Điều 3 Luật GDNN. Nhầm lẫn này trước đó cũng đã mắc phải ở Luật Giáo dục (Khoản 2 Điều 4).
Trong giáo dục văn bản luật có thể được xây dựng cho toàn hệ thống giáo dục (thí dụ như Luật Giáo dục), cho từng bậc học của hệ thống (thí dụ như Luật Giáo dục đại học), hoặc cho từng lĩnh vực giáo dục (thí dụ như Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục nghề nghiệp). Văn bản luật xây dựng cho từng bộ phận giáo dục (Luật “con”) thường còn có tên là Đạo luật (Act) và không có giá trị điều chỉnh lại “Luật mẹ” (Law).
Nhầm lẫn trên ở Luật GDVN đã dẫn tới việc loại bỏ trình độ cao đẳng ra khỏi bậc học đại học (Higher Education / Tertiary Education) thể hiện ở các Điều 76 & 77 Luật GDVN, gây rối cho hệ thống giáo dục quốc dân và làm trái với hệ thông lệ quốc tế hiện nay (xem International Standard Classification of Education ISCED 2011 được UNESCO ban hành năm 2011).
b. Nhầm lẫn giữa Giáo dục nghề nghiệp hay Dạy nghề (Vocational Education) với Giáo dục chuyên nghiệp (Processional Education) về mục tiêu đào tạo. Theo thông lệ chung (cả Việt Nam và Thế giới) thì Giáo dục nghề đào tạo nhân lực trực tiếp tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, tức là đào tạo thợ và nhân viên, trong khi giáo dục chuyên nghiệp đào tạo chuyên gia (kỹ thuật viên, cán sự, giáo viên, kỹ sư, chuyên viên, bác sĩ, luật sư,…). Theo ISCED 2011 (Khổ 53) thì Giáo dục nghề nghiệp (cũng như giáo dục phổ thông – General Education) chỉ có ở bậc học dưới đại học, còn giáo dục chuyên nghiệp (cũng như giáo dục hàn lâm – Academic Education) chỉ tồn tại ở bậc học đại học (Tertiary Education).
Việc nhầm lẫn mục tiêu đào tạo dẫn tới định hướng hợp nhất giữa Giáo dục nghề với Giáo dục chuyên nghiệp làm méo mó cơ cấu nguồn nhân lực cho CNH, HĐH đất nước (Theo ISCED 2011 cùng một trình độ đào tạo nhưng có thể có nhiều loại chương trình khác nhau, có mục tiêu đào tạo và cấu trúc nội dung khác nhau, thích ứng với việc đào tạo ra nhiều loại nhân lực khác nhau).
c. Nhầm lẫn giữa trình độ đào tạo (level) với trình độ tay nghề. Theo ISCED 2011 trong giáo dục có 9 trình độ là: mầm non (0), tiểu học (1), trung học cơ sở hay sơ trung (2), trung học (3), sau trung học, dưới đại học (4), cao đẳng (5), cử nhân (6), thạc sỹ (7) và tiến sỹ (8). Tuy nhiên, định nghĩa trình độ của Giáo dục nghề nghiệp (Khoản 2 Điều 4) của Luật GDVN chủ yếu theo trình độ tay nghề của Giáo dục nghề. Điều này hoàn toàn không phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt đối với Giáo dục chuyên nghiệp. Trình độ cao đẳng ở Luật GDVN thực ra chỉ tương ứng với trình độ 4 (dưới cao đẳng) của ISCED 2011.
d. Các quy định về điều kiện tuyển sinh (Điều 32), về thời gian đào tạo (Điều 33) ở Luật GDVN chỉ phù hợp với Giáo dục nghề, không phù hợp và nói chung là thấp thua so với các quy định tại ISCED 2011. Điều này gây khó khi xác lập mối quan hệ tương đương giữa hệ thống văn bằng giáo dục – đào tạo của Việt Nam với thế giới (tức là sẽ không được thế giới công nhận rộng rãi).
e. Việc quy định người tốt nghiệp cao đẳng được công nhận danh hiệu cử nhân thực hành hoặc kỹ sư thực hành tại Khoản 1 Điều 38 Luật GDVN là một quyết định phi học thuật, chưa từng có trên thế giới và sẽ gây nhiều hệ lụy khó lường (cả ở trong nước và thế giới). Theo ISCED 2011 (Khổ 210) thì người có trình độ 5 (Accociate Degree) chỉ được nhận danh hiệu kỹ thuật viên hoặc thợ bậc cao. Theo quy định cả Quốc tế lẫn Việt Nam danh hiệu kỹ sư chỉ được trao cho những ai đã qua trình độ cử nhân kỹ thuật (thời gian đào tạo 4 năm), sau đó phải học thêm ít nhất 1 năm theo hướng chuyên sâu (thí dụ như tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội), hoặc phải qua hoạt động đúng nghề nghiệp được đào tạo một số năm để được hiệp hội kỹ sư công nhận. trong hệ thống Giáo dục quốc dân của nước ta không thể có đồng thời “kỹ sư 5 năm” và “kỹ sư 2 năm”!
Ở phần trên chúng tôi đã chỉ ra một số nhầm lẫn về một số nội dung của Luật Giáo dục nghề nghiệp, có thể dẫn tới những hệ lụy cho chiến lược phát triển nhân lực cho đất nước và chủ trương hội nhập quốc tế. Với trách nhiệm cao trước sự nghiệp giáo dục của đất nước, chúng tôi xin kiến nghị đến Quốc hội khóa XIII:
- Trong trường hợp chưa kịp điều chỉnh nội dung Luật GDVN đề nghị Quốc hội ra quyết nghị giới hạn phạm vi điều chỉnh của Luật trước mắt chỉ cho lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, chưa áp dụng cho lĩnh vực giáo dục chuyên nghiệp, đặc biệt đối với loại hình cao đẳng chuyên nghiệp.
TS. Lê Viết Khuyến